Quân đội Bát_Kỳ

Đóng quân

Cấm lữ Bát kỳ

Nhà Thanh đóng đô ở Bắc Kinh, đây cũng là đại bản doanh của Bát kỳ. Quân đội Bát kỳ đóng giữ ở Kinh sư được gọi là "Cấm lữ Bát kỳ", "Kinh lữ Bát kỳ" hoặc "Kinh kỳ"[58].

Nhà Thanh thực hiện chế độ chia dân cư theo từng thành để sinh sống, án theo quy hoạch đại bản doanh đem Bát kỳ chia làm 2 là Tả dực (cánh trái, gồm Tương Hoàng kỳ, Chính Bạch kỳ, Tương Bạch kỳ, Chính Lam kỳ) và Hữu dực (cánh phải, Chính Hoàng kỳ, Chính Hồng kỳ, Tương Hồng kỳ, Tương Lam kỳ) để đóng quân trong nội thành Bắc Kinh, Hoàng thành và các địa phương bên ngoài.

Phân bố quân trú phòng Kinh thành

Quân cánh trái đóng ở thành Đông Bắc, lần lượt phân biệt đóng quân trong[59]:

Quân cánh phải đóng ở thành Tây Bắc, lần lượt phân biệt đóng quân trong[60]:

Từ đây về sau, vị trí trú phòng của Bát kỳ trong thành Bắc Kinh không hề xảy ra biến hóa, dù cho càng về sau, tính chất "Đại bản doanh Bát kỳ" của thành Bắc Kinh không còn như trước[61].

Quan binh trong Bát kỳ, về mặt hành chính đều do Đô thống Nha môn của Kỳ đó quản lý, có chiến sự thì xuất binh, không có chiến sự thì lập tức rút về Kinh thành, là lực lượng cơ bản của quân đội nhà Thanh. Binh sĩ của Cấm lữ Bát kỳ vào thời Thuận Trị là 8 vạn, thời Khang Hi là 10 vạn, đến thời Thanh Mạt, có chức quan là 6680 người, binh lính là hơn 12 vạn[62].

Thể chế của "Cấm lữ Bát kỳ" là dựa theo binh chủng khác nhau mà thành lập các doanh khác nhau, lần lượt là Thân quân, Kiêu kỵ (Mã giáp), Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân (Bộ giáp)[63]. Trong đó, Kiêu kị doanh, Hộ quân doanh, và Bộ quân doanh đều án theo từng Kỳ mà thiết lập; Tiền phong doanh án theo Tả - Hữu dực để thiết lập; Hộ quân doanh và Tiền phong doanh là Cảnh vệ cung cấm, lúc Hoàng đế ra ngoài thì làm tùy tùng đi theo, là thành phần tinh nhuệ trong quân đội Bát kỳ[63].

Sau đó lại từ các Doanh trên tuyển chọn ra Thần cơ doanh, từ trong Tiền phong doanh tuyển chọn ra Kiện duệ doanh, từ Hán Quân của Kiêu kị doanh tuyển ra Thương doanh, Pháo doanh các loại, từ quân Mãn - Mông có luyện tập hỏa khí tuyển chọn ra Hỏa khí doanh, chính là lính đặc chủng[64].

Từ thời Khang Hi, quân Bát kỳ từng bước di cư ra khỏi thành Bắc Kinh, nguyên nhân là vì sự xuất hiện của Viên Minh viên, liền phải điều quan viên Bát kỳ trong Kinh thành đến nơi này để bảo vệ. Sau khi Viên Minh viên hoàn thành, các đời Hoàng đế thường xuyên ở lại đây vài tháng, vì vậy trên thực tế, Viên Minh viên là một tòa Hoàng cung thứ hai. Vì để bảo vệ sự an toàn của Viên Minh Viên, vào năm Ung Chính thứ 2 (1724), triều đình đã lên kế hoạch thiết lập Hộ quân doanh ở đây:

Trú phòng Bát kỳ

Kinh sư Trú phòng

Quân trú phòng Kinh kỳ chia làm nhiều loại, đều là theo nơi đóng quân, như Thuận Nghĩa, Xương Bình, Tam Hà hay Lương Hương, đều là những địa phương ngay gần thành Bắc Kinh. Trên thực tế, đội quân này là hộ vệ bên ngoài của Kinh thành. Những nơi đóng giữ xa hơn như Bảo Định, Thái Nguyên, Thương Châu, Đức Châu, đều là những con đường giao thông quan trọng từ Bắc Kinh đến các địa phương khác.

Địa phương Trú phòng
Nằm ở phía Tây thành Hàng Châu, là thành của Doanh trú phòng ở giữa Tiễn Đường môn và Dũng Kim môn, bắt đầu xây dựng vào năm Thuận Trị thứ 5 (1648)

Để có thể khống chế tốt lãnh thổ rộng lớn, nhà Thanh phân một bộ phận lớn quân Bát kỳ đến các địa phương đóng giữ, xưng là "Trú phòng Bát kỳ"[65]. Ban đầu, để đề phòng nhà Nam Minh và các thế lực phản Thanh phục Minh, nhà Thanh chủ yếu tập trung bố trí lực lượng phòng thủ ở phía Nam, đặc biệt là Đông Nam. Về sau, đến nửa sau những năm Khang Hi, thế lực Chuẩn Cát Nhĩ quật khởi, vì vậy Khang Hi Đế bắt đầu tăng cường lực lượng phòng thủ ở phía Bắc. Chế độ Trú phòng Bát kỳ bắt đầu từ triều Thuận Trị, mở rộng và phát triển trong hai triều Khang - Ung, đến thời Càn Long thì hình thành định chế[66].

Giữa những năm Thuận Trị, quân Bát kỳ Trú phòng ở các địa phương chỉ vẻn vẹn hơn 15 ngàn quân, đến thời Khang - Ung thì dần tăng lên hơn 9 vạn quân, đến Thanh trung kỳ thì đạt hơn 10 vạn, cũng từ đó mà binh ngạch của Bát kỳ Trú phòng về cơ bản ngang hàng với Kinh kỳ, kéo dài đến tận thời Thanh mạt[66]. Đến thời Khang - Càn, nơi trú phòng của quân Bát kỳ ở Mãn Châu tăng từ 15 lên 44 nơi, tại các tỉnh khác thì tăng từ 9 lên 20 nơi. Trong những năm Càn Long, còn thiết lập thêm 8 nơi đóng quân ở Tân Cương[66]. Trong đó, binh lực tại Đông Bắc chiếm gần một nửa binh lực trú phòng, số nơi trú phòng cũng chiếm hơn phân nửa[66]. Ngược lại, các địa phương khác chỉ có từ 1 đến 3 nơi đóng quân ở mỗi Tỉnh, trong đó phía bắc Trường Giang tương đối nhiều, còn lại Hồ Nam, Giang Tây, Quảng Tây, Quý Châu đều không bố trí trú phòng[67].

Việc đóng giữ trong nội địa chủ yếu do hơn 60 vạn Lục kỳ binh đảm nhiệm[67], Bát kỳ Trú phòng chủ yếu đảm nhiệm vai trò giám sát. Quân Bát kỳ đóng giữ hơn 70 nơi trên toàn lãnh thổ Trung Quốc, đều là những thành trấn quan trọng hoặc những nơi thủy bộ trọng yếu. Căn cứ theo nhu yếu mà thiết lập Trú phòng Tướng quân, Đô thống, Phó Đô thống hoặc chỉ thiết lập Thành thủ Úy, Phòng thủ Úy làm thống lĩnh. Trú phòng Bát kỳ là lực lượng quan trọng của nhà Thanh để khống chế toàn lãnh thổ[67]. Ngoại trừ khu vực Đông Bắc, ở tất cả các địa phương trú phòng nhà Thanh cũng áp dụng chế độ phân chia "Kỳ nhân" và "Dân nhân", vừa để dễ quản lý, vừa để giảm khả năng bị người Hán ở địa phương đồng hóa[68].

Ung Chính Đế từng nói, nơi Trú phòng chỉ là nơi đi công tác, Kinh sư mới là quê cha đất tổ[69]. Binh sĩ Trú phòng ban đầu đều là từ các Tá lĩnh Kinh kỳ phái ra, sau đó lại từ những Tá lĩnh khác nhau này, tại nơi Trú phòng hình thành nên những Tá lĩnh mới, tuy nhiên hộ tịch của họ vẫn nằm trong Tá lĩnh ban đầu. Tuy nhiên, dần dần do tính cố định hóa của chế độ, hộ tịch của người Bát kỳ trú phòng mặc dù vẫn thuộc nha môn Tá lĩnh cũ, nhưng quan hệ lại càng lúc càng nhạt đi, lại dần hình thành nên một quần thể mới ở đất trú phòng[67]. Việc thực thi chế độ Bát kỳ trú phòng đã kiến cho dân cư Bát kỳ phân tán thành các tụ điểm dân cư nhỏ, rải khắp cả nước, nam đến Quảng Châu, bắc đến Ái Hồn, tây đến Y Lê, cuối cùng tập trung đông nhất vẫn là xung quanh kinh thành[67].

Trú phòng Bát kỳ ở địa phương
Phân loạiĐịa phươngThời gian

thiết lập

Tướng lĩnhBinh lựcNguyên nhân bố phòng
Trực tỉnh

trú phòng

Giang Ninh16451 Tướng quân

(Giang Ninh Tướng quân)

4000 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán Quân

Giang Ninh, tức Nam Kinh là cố đô của 6 triều đại thời Nam Bắc triều, cũng là điểm giao thông quan trọng của hai đường thủy bộ.
Hàng Châu16451 Tướng quân

(Hàng Châu Tướng quân)

4000 quân

Chủ yếu là Mãn - Mông, một ít Hán Quân

Hàng Châu là trọng trấn phía Nam, hơn nữa thế lực của Nam Minh vẫn còn sót lại ở đây, vì vậy bố phòng để đảm bảo điều vận lương thực ở phía Nam.
Phúc Châu16801 Tướng quân

(Phúc Châu Tướng quân)

1000 quân

Đều là Hán Quân Bát kỳ, về sau có tăng thêm

Bộ hạ cũ của Cảnh thị - một thế lực trong Tam phiên. Bộ hạ cũ của Cảnh Tinh Tinh sau khi đầu hàng được đãi[note 15] vào Hán Quân Thượng Tam kỳ.
Quảng Châu16811 Tướng quân

(Quảng Châu Tướng quân)

3000 quân đều thuộc Hán Quân Bát kỳ:
  • 1125 quân thuộc Thượng Tam kỳ
  • 1875 quân thuộc Hạ Ngũ kỳ
Bộ hạ của của Thượng thị - một thế lực trong Tam phiên. Bộ hạ cũ của Thượng Khả Hỉ sau khi đầu hàng được đãi vào Hán Quân Thượng Tam kỳ.
Kinh Châu16831 Tướng quân

(Kinh Châu Tướng quân)

4000 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ, không có Hán Quân

Sau khi bình định Loạn Tam Phiên, Khang Hi Đế nhận ra tầm quan trọng về mặt địa lý của Kinh Châu
Thành Đô17381 Tướng quân

(Thành Đô Tướng quân)

1600 quân

Về sau có tăng thêm quân

Ban đầu là một chi nhánh của Trú phong Kinh Châu, về sau vì loạn Đại - Tiểu Kim Xuyên mà mở rộng
Khai Phong17181 Thành thủ Úy800 quân

Đều là Mãn - Mông Bát kỳ

Hà Nam được mệnh danh là "Trung tâm của thiên hạ", "Trái tim của Cửu châu", thuận tiện giao thông đến các tỉnh khác.
Thanh Châu1729Ban đầu là Phó Đô thống

Sau thăng thành Tướng quân

Sau lại hàng Phó Đô thống

(Thanh Châu Phó Đô thống)

2000 quân

Đều là Mãn Châu Bát kỳ

Sơn Đông luôn được xem là một cánh tay của Kinh sư
Đông Bắc

trú phòng

Thịnh Kinh1664- 1 Tướng quân

- 4 Phó Đô thống

- 1 Phó Đô thống hàm Tổng quản

Thường giữ ở mức 5000 quân

Thời Thanh mạt đạt đến 20000 quân

Là vùng đất long hưng cũng là Kinh sư thứ hai của nhà Thanh. Vì vậy nơi đây được bố trí quân lực đông nhất ba tỉnh Đông Bắc.
Cát Lâm16761 Tướng quân

(Cát Lâm Tướng quân)

4000 quân phòng ngựCố hương của Mãn Châu, vẫn luôn được coi là "Vùng đất cội nguồn"
Hắc Long Giang16831 Tướng quân

(Hắc Long Giang Tướng quân)

2000 quân phòng ngựCố hương của Mãn Châu, vẫn luôn được coi là "Vùng đất cội nguồn"
Tây Bắc &

Biên cương

trú phòng

Ninh Hạ17251 Tướng quân

(Ninh Hạ Tướng quân)

3400 quân

Về sau có giảm bớt

Bởi vì yêu cầu đối với Hải quân, Trú phòng Ninh Hạ trở thành định chế
Tây An16451 Tướng quân

(Tây An Tướng quân)

4000 quân Mãn - Mông Bát kỳ

3000 quân Hán Quân Bát kỳ

Tây An là nơi đóng quân và tích trữ lương thảo để chuẩn bị tấn công các địa phương như Hồ Quảng, Tứ Xuyên, cũng là để chấn nhiếp các thế lực phản Thanh ở Sơn Tây, Thiểm Tây.
Nhiệt HàSau 17231 Đô thống

(Nhiệt Hà Đô thống)

3600 quân Mãn - Mông Bát kỳ:Ba phía Nhiệt Hà đều tiếp giáp Mông Cổ, là nơi có vị trí địa lý quan trọng.
Sát Cáp Nhĩ17611 Đô thống

(Sát Cáp Nhĩ Đô thống)

1000 quân Sát Cáp Nhĩ Bát kỳ[note 16]Bản thân Sát Cáp Nhĩ bộ là hậu duệ của Lâm Đan hãn, sau khi con trai của Lâm Đan hãn là Ngạch Triết đầu hàng, bộ nhân được phân thành Sát Cáp Nhĩ Bát kỳ
Tuy Viễn17611 Tướng quân

(Tuy Viễn thành Tướng quân)

4100 quân Mông Cổ Bát kỳTuy Viễn thành vốn là nơi nhà Thanh đặt một thành trì trú phòng ngay sát Thổ Mặc Đặc bộ để giám thị bộ lạc này và cả vùng Tây Bắc.
Tân Cương1762- 1 Tướng quân

(Y Lê Tướng quân)

- 1 Đô thống

(Ô Lỗ Mộc Tề Đô thống)

6400 quân Mãn - Mông Bát kỳ

500 quân Đạt Thập Đạt Ngõa Ách Lỗ Đặc

1000 quân Sách Luân Hắc Long Giang

1000 quân Mông Cổ Sát Cáp Nhĩ

1000 quân Đông Bắc Tích Bá

2300 quân Ách Lỗ Đặc

600 quân Sa Tất Nạp Nhĩ

3000 quân Lục doanh

Sau khi bình loạn Chuẩn Cát Nhĩ và Đại - Tiểu Hòa Trác, Triều đình thiết lập vị trí Y Lê Tướng quân, trực tiếp thống trị Tân Cương.

Biên chế

Quân hàm

Năm Thuận Trị thứ 11 (1660), Thuận Trị Đế ra chỉ dụ, định ra Hán văn của Cố Sơn Ngạch Chân là Đô thống, Mai Lặc Chương Kinh là Phó Đô thống, Giáp Lạt Chương Kinh là Tham lĩnh, Ngưu lục Chương Kinh là Tá lĩnh. Vì vậy, các tầng cơ cấu của Bát kỳ lần lượt là Ngưu lục (Tá lĩnh) - Giáp Lạt (Tham lĩnh) - Cố Sơn (Đô thống).

Trong Bát kỳ ở Kinh sư, ở mỗi kỳ thiết lập 1 Đô thống - hàm Tòng Nhất phẩm, 2 Phó Đô thống - hàm Chính Nhị phẩm, ở dưới lần lượt thiết lập Tham lĩnh, Tá lĩnh, Hiểu kỳ giáo và Ấn vụ Tham lĩnh, Ấn vụ Chương Kinh, Bút thiếp thức các loại. Ngoài ra ở mỗi Kỳ còn nhiều quan viên Hành tẩu, Tán trật quan, số lượng vô hạn định.

Phẩm hàm và số lượng Chức vụ
Chức vụBát kỳSố lượngPhẩm hàmGhi chú
1 kỳTổng
Đô thống1824Tòng Nhất phẩmTrước khi nhập quan, Mãn ngữ xưng là "Cố Sơn Ngạch Chân". Đến năm 1723, Ung Chính đổi thành "Cố Sơn Ngang Bang" (固山昂邦, tiếng Mãn: ᡤᡡᠰᠠ ᠪᡝ
ᡴᠠᡩᠠᠯᠠᡵᠠ
ᠠᠮᠪᠠᠨ, Möllendorff: gūsa be kadalara amban).

Quân Bát kỳ đóng ở các tỉnh thường trên 2000 người, đứng đầu là Tướng quân, tổng cộng 13 vị, đều Tòng Nhất phẩm.

Chức Đô thống và Tướng quân trú phòng đều do các Vương công Tông thất hoặc các đại thần thân tín của Hoàng đế kiêm nhiệm. Thông thường, Đô thống và Tướng quân không cùng được thiết lập, nếu đã đặt Tướng quân thì ở dưới sẽ là Phó Đô thống.

Phó Đô thống21648Chính Nhị phẩmTrước khi nhập quan, Mãn ngữ xưng là "Mai Lặc Ngạch Chân" hay "Mai Lặc Chương Kinh".

Là chức quan có nhiệm vụ giúp đỡ công việc cho Đô thống

Tham lĩnhMãn Châu54096Chính Tam phẩmBan đầu, Mãn ngữ xưng là "Giáp Lạt Ngạch Chân" hay "Giáp Lạt Chương Kinh (甲喇章京, tiếng Mãn: ᠵᠠᠯᠠᠨ ᡳ
ᠵᠠᠩᡤᡳᠨ, Möllendorff: jalan i janggin). Nhiệm vụ chưởng quản các trang bị chiến đấu, binh tịch, tranh tụng, hộ khẩu, điền trạch, .... của mỗi Kỳ. Dưới Tham lĩnh là Tá lĩnh, số lượng không đồng nhất, thông thường là 5.

Ngoại phiên Mông Cổ còn có một chức vụ là Trát Lan (參領, tiếng Mông Cổ: ᠵᠠᠯᠠᠨ, chữ Mông Cổ: Залан, chuyển tả: ǰalan)

Mông Cổ216
Hán Quân540
Phó Tham lĩnhMãn Châu54096Chính Tứ phẩmDưới mỗi Tham lĩnh thiết lập 1 Phó Tham lĩnh
Mông Cổ216
Hán Quân540
Tá lĩnhMãn Châu6811151Chính Tứ phẩmĐô thống, Phó Đô thống đều không thế tập, do đích thân Hoàng đế định ra. Tham lĩnh cũng không thế tập, là chọn từ trong Kỳ để đảm nhậm. Riêng Tá lĩnh phần lớn đều là thế tập, như Huân cựu Tá lĩnh, Thế quản Tá lĩnh, cũng có một phần không phải thế tập như Công trung Tá lĩnh.
Mông Cổ204
Hán Quân266
Hiểu kỵ giáoMãn Châu6811151Chính Lục phẩmDưới mỗi Tá lĩnh thiết lập 1 Hiểu kỵ giáo
Mông Cổ204
Hán Quân266
Ấn vụ Tham lĩnhMãn Châu21640Còn được xưng là "Hiệp lý sự vụ Tham lĩnh" hoặc "Ấn phòng Tham lĩnh".

Chịu trách nhiệm các công việc như trình Tấu chương, quản lý hồ sơ, ấn vụ,...

Mông Cổ18
Hán Quân216
Ấn vụ Chương kinhMãn Châu864144Còn được xưng là "Hiệp lý sự vụ Chương kinh" hoặc "Ấn phòng Chương kinh".

Đều từ các Thế chức, Tá lĩnh, Kiêu kỵ giáo của bản kỳ mà chọn người kiêm nhiệm.

Chịu trách nhiệm tương tự Ấn vụ Tham lĩnh.

Mông Cổ424
Hán Quân636
Bút thiếp thứcMãn Châu864144
Mông Cổ424
Hán Quân636

Các chức vụ

Hệ thống các Chức vụ trong Bát kỳ
Chức vụPhẩm cấpMãn ngữĐịa vịChức trách
Đô thốngTòng Nhất phẩmCố Sơn Ngạch Chân, 「固山額真」

Cố Sơn Ngang Bang, 「固山昂邦」

Là chức vụ tối cao ở mỗi KỳChấp chưởng Hộ khẩu, giáo dưỡng, thừa tập quan tước, huấn luyện quân sự ở mỗi Kỳ.
Phó Đô thốngChính Nhị phẩmMai Lặc Ngạch Chân, 「梅勒额真 」

Mai Lặc Chương Kinh, 「梅勒章京」

Ở một số địa phương, Phó Đô thống là người đứng đầu quân trú phòng (như Thanh Châu)Trấn thủ những nơi hiểm yếu, ổn định quân dân, quản lý việc xử phạt, rèn luyện võ bị
Hiệp lĩnhChính Tam phẩmỞ Đông Bắc, Hiệp lĩnh là người đứng đầu quân đồn trú (như Cát Lâm Hồn Xuân, Tam Tính, Lạp Lâm)Là Thế chức Phụ trách việc quân sự và chính trị.
Tham lĩnhChính Tam phẩmGiáp Lạt Ngạch Chân, 「甲喇额真」

Giáp Lạt Chương Kinh, 「甲喇章京」

Đồn trú ở Kinh sưChưởng quản sự vụ của Thượng Tam kỳ Bao y, biên thẩm danh sách nhân khẩu, phân phát tiền lương cùng tiền cấp dưỡng cho quan binh, tổ chức các kỳ kiểm tra sát hạch văn võ, tuyền chọn Tam kỳ Bao y mặc giáp, treo biển "Hiền hiếu tiết nghĩa", tra xét Thế chức phả hệ, điều tra và cấm người chạy trốn [note 17]. Ngoài ra còn có huấn luyện thao diễn, phân công trực ban, ...
Thành thủ ÚyChính Tam phẩmThuộc quản lý của Tướng quân hoặc Phó Đô thống trú phòng.

Cũng có khi là người đứng đầu quân Trú phòng (như Bảo Định, Thương Châu, Thái Nguyên, Khai Phong)

Phụ trách phòng vệ ở các điểm trọng yếu của các Phủ, Châu, chưởng quản sự vụ quân sự và chính trị của doanh trại trú phòng, rèn luyện võ bị, ổn định địa phương.
Tá lĩnhChính Tứ phẩmNgưu lục Ngạch Chân, 「牛录额真」

Ngưu lục Chương Kinh,「牛录章京」

Chịu sư quản lý của Tham lĩnh nếu đóng ở Kinh sư, của Hiệp lĩnh nếu đóng ở các nơi trú phòng.Lo về vấn đề hộ khẩu, công việc và thu nhập của những hộ gia đình có trong Ngưu lục mà mình quản lý.
Lĩnh thôiBạt thập khố,「拨什库」Dưới mỗi Tá lĩnh đều có Lĩnh thôiPhụ trách hồ sơ cùng với chi lĩnh lương bổng.
Kiêu kỵ giáoChính Lục phẩmPhân đắc Bạt thập khố,「 分得拨什库」
Mã giápKỵ binh, còn xưng là Kiêu kỵ
Lầu canh nơi huấn luyện Kiện duệ doanhDưới cùng là Bắc hải, ở trên là Trung - Nam hải

Quân doanh

Danh xưngGiới thiệu vắn tắt
Kiêu kỵ doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "A Lễ Cáp Siêu Cáp doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Thời Thuận Trị định ra chế độ rõ ràng, thiết lập Kiêu kỵ doanh trong quân Bát kỳ, là lực lượng lệ thuộc trực tiếp vào Đô thống.

Trong Kiêu kỵ doanh quản lý Mã giáp, Lĩnh thôi, Tượng dịch, các nhân viên đều điều từ dưới các Tá lĩnh của Mãn Châu Bát kỳ.

Hộ quân doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "Ba Nha Lạt doanh" giữa những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Thượng Tam kỳ trông coi Hoàng cung Cấm môn (tức Ngọ môn), Đông Tây Hoa môn và Thần Vũ môn.

Hạ Ngũ kỳ trông coi cửa phủ của các Vương công Tông thất.

Thời Ung Chính đổi thành "Quân ti Cấm vệ". Các nhân viên đều điều từ Mãn - Mông Bát kỳ. Mỗi kỳ thiếp lập 1 Hộ quân Thống lĩnh (tui janggin).

Năm Ung Chính thứ 3 (1725), thiết lập thêm "Viên Minh Viên Bát kỳ Hộ quân doanh", đóng quân ở xung quanh Viên Minh viên, cũng là Ti Cấm vệ.

Tiền phong doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, bắt đầu từ "Cát Bố Thập Hiên Siêu Cáp doanh" những năm Thiên Thông, thời Hoàng Thái Cực.

Tuyển từ Mãn - Mông Bát kỳ những binh sĩ tinh nhuệ có thân thể khỏe mạnh, kỹ nghệ ưu tú, lập nên một doanh độc lập.

Những hoạt động đi tuần thời Thanh rất nhiều, Tiền phong doanh phụ trách làm quân tiền tiêu cảnh vệ mỗi khi Hoàng đế đi tuần du.

Kiện duệ doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, còn xưng là "Vân Thê binh", thiết lập vào năm Càn Long thứ 14 (1749).

Kiện duệ doanh trú đóng ở Hương Sơn - Bắc Kinh, chuyên luyện tập công thành.

Quân trong doanh được tuyển chọn rất nghiêm ngặt, binh ngạch 2000 người, phần lớn là người Mãn.

Thiết lập 1 Chưởng ấn Đại thần quản lý, bên dưới có 2 Dực trưởng (galai da)[note 18], 8 Tham lĩnh, hơn 10 Tiền phong giáo.

Hỏa khí doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh. Vì nhu cầu dẹp Loạn Tam phiên, Khang Hi Đế cực kỳ coi trọng kỹ thuật hỏa pháo.

Năm 1691, quy định toàn bộ doanh quân đều phải luyện tập Hỏa pháo, lại khuếch trưởng theo thủ vệ của Hoàng đế.

Quân trong doanh được tuyển chọn từ tất cả các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ, tổng cộng quản lý gần 8000 quan binh.

Hỏa khí doanh đã phát huy công dụng quan trọng trong những cuộc dẹp Loạn Tam phiên, thu phục Đài Loan, chống sự xâm lược của Sa Hoàng,...

Bộ quân doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh.

Chịu trách nhiệm bảo vệ Kinh sư, quân Mãn - Mông - Hán Bát kỳ chia ra trú phòng, nhân số tương đối đông.

Năm Khang Hi thứ 13 (1674), định chế binh ngạch là 21158 người.

Thần cơ doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, thiết lập vào năm Hàm Phong thứ 11 (1861).

Chức trách chủ yếu là thủ vệ 3 hồ lớn của Bắc Kinh (Trung Nam Hải, Bắc Hải và Thập Sát Hải) và theo Hoàng đế đi tuần du.

Quân trong Thần cơ doanh đều tuyển chọn những người võ nghệ cao cường từ các Tá lĩnh thuộc Mãn - Mông - Hán Bát kỳ và các doanh Tiền phong, Hộ quân, Bộ quân, Kiện duệ,...

Hổ thương doanhMột trong các lực lượng Cấm vệ quân thời Thanh, thiết lập vào thời Khang Hi.

Hổ thương doanh còn được xưng là "Thiếu niên Đại lực sĩ", giúp đỡ Khang Hi Đế rất lớn trong việc diệt trừ Ngao Bái, lập được công lao hiển hách.

Suy thoái và tan rã

Quá trình

Đến giữa thế kỷ 19, quân thường trực của nhà Thanh có 25 vạn quân Bát kỳ và 66 vạn quân Lục doanh.

Tình hình tổng quát thời Thanh mạt:

Danh xưngCờ hiệuBinh lựcTổng nhân khẩuKỳ chủNhững Lĩnh chủ khácGhi chú
Tương Hoàng kỳ86 Tá lĩnh, 2 phán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 30,000

230,000Hoàng đếKhông cóLà Kỳ đứng đầu[70]. Có một khoảng thời gian ngắn Đa Đạc trở thành Kỳ chủ, cũng là Tông thất (không phải Hoàng đế) duy nhất làm chủ Kỳ này.
Chính Hoàng kỳ92 Tá lĩnh, 2 bán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 32,000

250,000Hoàng đếKhông có
Chính Bạch kỳ86 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

270,000Hoàng đếKhông cóNhững năm đầu Thuận Trị, kỳ chủ là Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn. Sau khi Đa Nhĩ Cổn mất, Thuận Trị liền tiếp quản, đến tận khi từ Hạ Ngũ kỳ chuyển thành Thượng Tam kỳ[71].
Chính Hồng kỳ84 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

245,000Lễ Thân vương[72]Thuận Thừa Quận vương[72]
Tương Bạch kỳ84 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 26,000

230,000Dự Thân vương[73]Thuần Thân vương[74]
Tương Hồng kỳ86 Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 28,000

230,000Khắc Cần Quận vương[73]Trang Thân vương[73]
Chính Lam kỳ83 Tá lĩnh, 11 bán phân Tá lĩnh

Binh lực ước chừng 27,000

250,000Túc Thân vương[75]Duệ Thân vương[73]
Di Thân vương[76]
Tương Lam kỳ87 Tá lĩnh, 1 bán phân Tá lĩnh,

Binh lực ước chừng 28,000

250,000Trịnh Thân vương [73]Cung Thân vương[77]
Khánh Thân vương[78]

Tuy vậy cuối cùng đạo quân này cũng lại gặp phải bi kịch của đại quân Mông Cổ, đó là sức chiến đấu ngày càng giảm đi sau khi giành được thiên hạ. Những nguyên nhân có thể kể ra như:

  • Sau khi chiếm lĩnh được Trung Nguyên, Nhà Thanh bố trí Bát kỳ Mãn Châu làm quân đồn trú tại các địa phương để ngăn chặn sự nổi dậy của dân chúng. Điều này đẩy nhanh quá trình Hán hóa, và chỉ sau mấy chục năm hòa bình và hiếm khi thao luyện trên chiến trường, Bát kỳ Mãn Châu dần mất đi khả năng chiến đấu.
  • Quân Bát kỳ thực hiện chế độ cha truyền con nối, cả nhà đời đời nối nhau tham gia quân ngũ, cha là lính Bát kỳ thì các con trai cũng sẽ là lính Bát kỳ, không tuyển thêm người ngoài. Vì thế, một đứa trẻ sơ sinh cũng đã là một người lính Bát kỳ và được trả lương, dẫu rằng sau này lớn lên nó chẳng hề được huấn luyện quân sự và chẳng biết gì về việc tác chiến. Qua mấy thế hệ không gặp chiến tranh, tinh thần thượng võ trong các gia tộc quân nhân dần giảm sút, con cháu phải lo mưu sinh nên trình độ huấn luyện, tinh thần chiến đấu cũng ngày càng kém đi so với cha ông. Ngoài ra, do sinh đẻ thời đó khó kiểm soát nên nhân khẩu của Bát kỳ ngày càng tăng, Giữa thời Gia Khánh, tráng đinh người Mãn trong Bát kỳ có ước khoảng 50 vạn người, nếu như tính cả già trẻ và nữ giới thì có 150 vạn người, tăng thêm rất nhiều so với thời kỳ đầu triều Thanh. Bộ máy ngày càng cồng kềnh, chi phí lương bổng ngày càng nhiều lên khiến chi phí cho huấn luyện, mua sắm vũ khí ngày càng ít đi.
  • Mặt khác, lương bổng quá thấp khiến việc tuyển mộ khó khăn và tạo ra hiện tượng lính ma, lính kiểng, việc chạy chức, chạy quyền các chức vụ chỉ huy trong Lục doanh đã xảy ra. Vì vậy phẩm chất tướng lãnh xuống thấp và nạn lính ma tăng cao. Các binh sĩ và chỉ huy đều không quan tâm tới việc huấn luyện mà chỉ chăm chú vào việc lao động kiếm tiền. Quan binh tham nhũng, ăn chặn lương bổng khiến binh sĩ mang tâm lý bất mãn đối với triều đình, không muốn liều mạng đổ máu cho triều đình và quan lại, khi có chiến sự chỉ lo bảo toàn tính mạng, hiếm khi xung phong hãm trận.
  • Quân Bát kỳ vẫn duy trì trang bị, lối huấn luyện giống như hồi giữa thế kỷ 17. Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, súng cầm tay và đại bác dần trở nên phổ biến, nhưng quân Bát kỳ vẫn tiếp tục duy trì chiến thuật kỵ binh và bắn cung như trước kia. Đến đầu thế kỷ 19 thì trang bị, chiến thuật của quân Bát kỳ đã trở nên lạc hậu, thậm chí còn kém hơn so với quân đội một số nước láng giềng chứ chưa nói tới quân đội các nước tư bản tiên tiến ở châu Âu. Danh tướng Phúc Khang An thời Càn Long – Gia Khánh từng dâng sớ cảnh báo: "Trận thế của quân Lục doanh xưa nay, chỉ là các thức lưỡng nghi tứ tượng, vuông tròn. Đây đều là các trận thế được truyền lại từ tiền triều, bắt chước như cũ. Bình thường thao duyệt tuy đáng xem nhưng khi lâm trận chiến đấu lại không thực dụng".
  • Đến đầu thế kỷ 19 thì Trung Quốc còn gặp họa thuốc phiện do phương Tây đưa vào. Nhiều tướng sỹ nghiện thuốc phiện, thể chất và trí lực trở nên yếu ớt, bệnh hoạn, không còn sức chiến đấu khi ra trận. Lâm Tắc Từ từng dâng tấu cho vua Đạo Quang nói về tác hại của thuốc phiện: “Thuốc phiện nếu không cấm tuyệt, thì nước mỗi ngày một nghèo, dân mỗi ngày một yếu; chỉ hơn chục năm sau, nước nhà không còn quân mạnh để ngự địch, không có bạc nén để lo quân lương”.

Bát kỳ Mãn Châu đã nhanh chóng thoái hóa, tốc độ thoái hóa còn nhanh hơn quân đội Mông Cổ mấy lần. Ngay từ năm 1657, vua Thuận Trị đã than phiền là quân Bát kỳ bị tụt giảm lớn về chất lượng, không sánh được với thời kỳ trước. Đến nửa cuối thế kỷ 17, đạo quân này về cơ bản đã biến thành kiêu binh. Chiến dịch đánh Đài Loan, chống loạn Tam phiên và bình Khiết Đan, Mông Cổ về cơ bản đều do quân Lục doanh người Hán gánh vác.[21] Và chỉ sau một thời gian thanh bình, Lục doanh cũng thoái hóa và mất dần khả năng quân sự và kỷ luật. Chất lượng quân đội nhà Mãn Thanh vào đầu thế kỷ 18 đã xuống dốc nghiêm trọng so với thời lập quốc.

Đến thời Càn Long, quân Bát kỳ đã trở nên rất suy thoái, hữu danh vô thực. Năm 1784, Càn Long đến Hàng Châu xem thao diễn quân sự, quân Bát kỳ ở đó bắn tên hầu hết bị trượt, có người cưỡi ngựa không vững bị té xuống đất. Trong Khởi nghĩa Bạch Liên giáo (1795), quân đội nhà Thanh mà nòng cốt là Bát kỳ Mãn Châu đã tỏ rõ sự xuống cấp nghiêm trọng về tác chiến. Họ phải điều động mấy chục vạn quân từ 16 tỉnh để trấn áp cuộc nổi dậy, hơn 10 võ quan cao cấp như Đề đốc, Tổng binh và hơn 400 võ quan trung cấp từ Phó tướng trở xuống tử trận[79] Chưa nói việc tác chiến mà ngay cả việc hành quân đường núi cũng đã là điều khó nhọc với binh sỹ Bát kỳ, trong 2 ngày họ chỉ đi được 70 dặm đường (khoảng 35 km). Trong chiến dịch Xuyên Sở, sách sử ghi lại xét chư tướng tụ tập ăn uống, vốn thâm hụt một khoản lớn, như cua cá hải sản 30, 40 loại, còn chi phí khao thưởng cho cấp dưới thì không tính nổi. Phàm những nơi màu mỡ, các chợ búa đầy ngọc ngà gấm lụa thì việc biếu xén, hối lộ, đánh bạc,… phung phí như bùn đất.[80] Bởi sự hủ bại không thể cứu vãn của các lực lượng chính quy Bát kỳ, Lục doanh, nhà Thanh buộc phải dựa vào binh sĩ địa phương để trấn áp cuộc khởi nghĩa.

Đến thời Đạo Quang, nhà vua từng thao duyệt hỏa khí doanh Bát kỳ ở kinh sư, là binh chủng chuyên về hỏa khí khi đó, trước giờ vẫn xưng là tinh hoa của Bát kỳ, kết quả là đa phần đại pháo bắn không trúng bia, đạn thì có viên bay nửa chừng rớt xuống đất. Quân Thanh giữ Sơn Hải quan bị thiếu hụt đại pháo giữ ải, phải lấy pháo cũ đã bỏ đi từ thời nhà Minh 200 năm trước đó để dự phòng. Vào giữa thế kỷ 19, các nước phương Tây đã bắt đầu dùng các loại vũ khí tân tiến như súng trường có rãnh xoắn, súng liên thanh, lựu đạn và địa lôi. Nhưng quân Thanh trong Chiến tranh Nha phiến 1840 vẫn tiếp tục dùng súng điểu thương, giáo gươm, cung tên giống như hồi thế kỷ 17.

Trong Chiến tranh nha phiến năm 1841, quân Anh chỉ điều động hơn 2 vạn người, còn nhà Thanh đã điều động tới hơn 10 vạn quân trú phòng ở các tỉnh, các tỉnh duyên hải còn chiêu mộ một số lượng lớn hương dũng để bố phòng, hao tổn hết hơn 20 triệu lạng bạc, vậy mà không thắng nổi một trận lớn nào. Chiến tranh nha phiến càng bộc lộ sự hủ bại của quân đội nhà Thanh: tuy xuất hiện một số gương tướng lĩnh trung quân ái quốc, quên mình hy sinh vì nước như Lâm Tắc Từ, Quan Thiên Bồi, nhưng về đại thể thì năng lực của đa số tướng soái đều tầm thường, nhiều nơi binh sỹ thấy địch thì tháo chạy.

Ngoài quân Bát kỳ là người Mãn Châu, còn có quân Bát kỳ là người Mông Cổ. Họ vẫn sống trên thảo nguyên, không di cư vào Trung Quốc nên không bị Hán hóa và vẫn còn giữ được khả năng chiến đấu lâu dài hơn Bát kỳ Mãn Châu. Nhưng tới cuối thời Càn Long (cuối thế kỷ 18) thì lực lượng này cơ bản cũng đã suy thoái, đội quân này bị đánh bại trong một chiến dịch đánh khởi nghĩa Niệp quân (Nian Army) vào thập niên 1860.

Trong Khởi nghĩa Thái Bình Thiên quốc (1851), quân Bát kỳ và Lục doanh đã quá hủ bại nên liên tục bại trận. Chỉ trong vòng chưa đầy nửa năm, quân Thái Bình Thiên quốc đã chiếm được hơn 16 tỉnh, 600 thị trấn... làm triều đình nhà Thanh lung lay đến tận gốc rễ. Tháng 3 năm 1853, quân nổi dậy chiếm được thành phố quan trọng phía nam của nhà Thanh là Nam Kinh. Chỉ một thời gian ngắn sau đó, lực lượng viễn chinh của Thái Bình Thiên Quốc xâm nhập về phía bắc tới tận các vùng ngoại ô Thiên Tân (天津), áp sát thủ đô Bắc Kinh của nhà Thanh.

Nhà Thanh phải chấp nhận nhiều đội quân "Dũng binh" kiểu mới ra đời để cứu vãn như Tương quân của Tăng Quốc Phiên, Sở quân của Tả Tông Đường, Hoài quân của Lý Hồng Chương và đạo quân đánh thuê nước ngoài Thường Thắng quân.[21] Súng trường được du nhập vào Trung Hoa do Thường Thắng quân của F. T. Ward và C. G. Gordon chỉ huy hồi thập niên 1860 khi họ giúp triều đình chống lại quân Thái Bình Thiên Quốc nhưng chưa được trang bị (đại trà) cho quân đội Trung Hoa. Hoài Quân (Huaijun) của Lý Hồng Chương có lẽ là lực lượng đầu tiên dùng các vũ khí mới này vào đầu thập niên 1860. Tuy nhiên, mãi đến thập niên 1880 súng trường mới là vũ khí tiêu chuẩn cho quân đội Trung Hoa. Bát kỳ và Lục doanh quân làm lãng phí các nguồn tài nguyên cần thiết cho bộ máy hành chính của nhà Thanh nên dần biến mất, từ thập niên 1870 các cơ cấu Dũng binh trên thực tế đã trở thành lực lượng số một của nhà Thanh.

Sau khi nhà Thanh sụp đổ

Sau khi Phổ Nghi thoái vị, người Bát kỳ nhờ vào "Điều kiện ưu đãi cho Hoàng thất nhà Thanh" mà được giữ lại một bộ phận chức năng. Nha môn Bát kỳ thuộc dưới sự quản lý của Bộ Lục quân của Chính phủ Bắc Kinh thuộc Trung Hoa Dân quốc, do Bộ này phân công việc và phát quân tiền. Sau chính biến ở Bắc Kinh vào năm 1924, quân tiền của người dân Bát kỳ bị dừng phát, nha môn Bát kỳ chỉ còn lại hình thức. Năm 1928, quân cách mạng Quốc dân bắc phạt thành công, Chính phủ Quốc dân chính thức xóa bỏ nha môn Bát kỳ[81]. Trừ Kinh kỳ, còn lại quân Trú phòng Bát kỳ ở Tây Bắc và Đông Bắc như Sách Luân Bát kỳ ở Hỗ Luân Bối Nhĩ, Bố Đặc Cáp Bát kỳ, Tích Bá doanh ở Tân Cương,... vì nguyên nhân lịch sử mà trong lúc xây dựng chế độ mới đã được giữ lại. Năm 1932, nha môn Phó Đô thống của Hỗ Luân Bối Nhĩ và Bố Đặc Cáp Bát kỳ bị chính phủ Mãn Châu Quốc hủy bỏ[82]. Đến năm 1938, Tích Bá doanh là tổ chức Bát kỳ cuối cùng cũng bị chỉnh phủ của khu tự trị Tân Cương xóa bỏ.

Từ thời Thanh trung hậu kỳ, những người Mông Cổ và Hán thuộc Bát kỳ vì sự ảnh hưởng của Kỳ mà dẫn đến phong tục tập quán, ngôn ngữ khác biệt tương đối lớn với người Mông Cổ, Hán truyền thống, lại trở nên giống với người Mãn Châu. Điều đó dẫn đến thời Dân Quốc, những người này không chỉ bị người khác nhận định mà họ còn tự nhận mình là người Mãn tộc. Trong quá trình phân biệt dân tộc trong thời kỳ mới, tổ tiên gia tộc có từng có Kỳ tịch thời Thanh hay không trở thành một trong những yếu tố quan trọng để phán định có phải người Mãn tộc hay không[83]. Vì vậy, Mãn tộc ngày nay là sự dung hợp của nhiều tộc người thuộc Bát kỳ lúc trước mà thành[19][84][85][86]. Kỳ nhân trở thành một tên gọi khác của Mãn tộc cũng từ đó mà truyền đến nay[87][88].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Bát_Kỳ http://jds.cass.cn/UploadFiles/zyqk/2011/10/201110... http://blog.sina.com.cn/s/blog_4c26e27b0101flae.ht... http://blog.sina.com.cn/s/blog_4c26e27b0102x1ez.ht... http://www.iqh.net.cn/info.asp?column_id=3974 http://www.iqh.net.cn/manage/uploadfiles/2008222/2... http://www.qinghistory.cn/qsyj/ztyj/ztyjzz/2009-11... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/181028 http://book.douban.com/subject/1024528/ http://books.google.com/books/about/The_Manchu_Way... http://m.wrlwx.com/Txt/XiaoShuo-159257.html